Thực ra, hành động chắp tay không chỉ xuất hiện từ khi Phật giáo ra đời, mà trước đó, trong xã hội Ấn Độ cổ người Ấn Độ có quan niệm: Tay phải là tay thần thánh, dành cho thần thánh, trong sạch và linh thiêng, tay trái là tay nhiễm ô, bất tịnh, trần tục. Chắp tay tượng trưng cho sự hợp nhất thánh thiện và nhiễm ô, dung thông thần thánh và trần tục. Phật giáo đã phát triển truyền thống này của Ấn Độ thành hợp thập.
Theo tinh thần Phật giáo, hai bàn tay chắp lại trước ngực, biểu thị lòng tôn kính, sự tập trung tư tưởng, thiền định, nhất tâm, tán dương và ca ngợi. Đồng thời, kế thừa và phát triển tư tưởng truyền thống, quan điểm đạo Phật cho rằng, chắp tay có ý nghĩa dung hợp các phạm trù đối lập, biểu thị thật tướng của vũ trụ vạn pháp, tìm về với bản nguyên chân diện mục của pháp giới.
Chỉ riêng về ấn Liên hoa này, giáo lý Phật giáo đã nhắc đến trong nhiều Kinh điển. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, dạy: “Cung kính hợp thập lễ”, chắp tay là thể hiện sự kính lễ được phát khởi.
Tiếp đến, trong Quán Vô Lượng thọ Kinh nói, chắp tay biểu thị cho sự ca ngợi, tán thán công đức chư Phật và chư Bồ tát.
Theo Kinh Đại Nhật, tay phải tượng trưng cho Tuệ, tay trái tượng trưng cho Định, chắp tay biểu trưng cho Định và Tuệ nhất như, đồng hiện. Mười ngón tay tiêu biểu cho mười pháp giới. Quán tưởng thập pháp giới trong hai bàn tay úy lại. Chắp tay chính là thâu nhiếp loạn tâm, tập trung tư tưởng nhất tâm hướng Phật, tâm và hành thống nhất, lý và sự tương ứng. Chỉ là một cái chắp tay nhưng thâu nhiếp tất cả giáo lý Phật Đà. Nếu chắp tay mà tâm tĩnh tại, không tán loạn, thiền định, dẹp bỏ mọi tạp niệm, quán tưởng Như Lai, thấy được vạn pháp dung thông, bất nhị ấy là đã chứng nhập vào cảnh giới Niết Bàn.

2- Không tâm hợp thập,
3- Vi khai liên hoa hợp thập,
4- Sơ cát liên hoa hợp thập,
5- Hiển lộ hợp thập,
6- Trì thủy hợp thập,
7- Quy mạng hợp thập,
8- Phản xoa hợp thập,
9- Phản bối hỗ tương hợp thập,
10- Hoành trụ chỉ hợp thập,
11- Phúc thủ hương hạ hợp thập,
12- Phúc thủ hợp thập.
Năm ngón của bàn tay trái nêu biểu cho năm Phật mẫu trí tuệ, năm ngón của bàn tay phải nêu biểu cho Ngũ trí Phật. Đồng thời năm ngón tay còn nêu biểu cho địa, thủy, hỏa, phong, không đại. Mười ngón tay nêu biểu cho trí tuệ Phật, nêu biểu cho các công hạnh Ba la mật, nêu biểu cho sự hình thành của vũ trụ.
Vì vậy sự kết hợp của hai bàn tay định tuệ hay hai bàn tay trí tuệ và phương tiện này tạo nên sự chuyển động của vũ trụ, chuyển động của pháp giới và trở thành những bản thệ nguyện của chư Phật.

Với những người sơ cơ trên đường Đạo, thì chắp tay chào hỏi còn mang ý nghĩa khuyến tấn, thức tỉnh “búp sen xin tặng người, một vi Phật tương lai”. Như vậy, ngoài ý nghĩa kết ấn, hợp thập còn mang nét đẹp văn hóa sâu sắc, đặc thù của Phật giáo.

